Những năm đầu của thập niên 1930, văn hóa Âu Châu, đặc biệt là của Pháp, ồ ạt xâm nhập vào Việt Nam. Các nhà văn hóa và văn nghệ Việt Nam bắt đầu chuyển hướng, tạo ra những dòng chảy mới. Trong lĩnh vực văn chương, có nhóm Tự Lực Văn Đoàn; về mỹ thuật, có trường Cao Đẳng Mỹ Thuật mở cửa vào năm 1926; và về âm nhạc, nhạc sĩ Việt Nam chịu ảnh hưởng của âm nhạc Pháp nhưng vẫn nỗ lực tìm ra con đường riêng để không bị nhạc Tây "nuốt chửng".
Dòng âm nhạc mới này được gọi là Tân Nhạc, Nhạc Cải Cách, sau này còn được biết đến với tên Nhạc Tiền Chiến. Năm 1938, báo Ngày Nay kêu gọi các nhạc sĩ Việt Nam giữ gìn hồn Việt trong các sáng tác nhạc cải cách. Trước đó, ở Việt Nam có hát Ả Đào, hát Ca Trù, hát Xẩm do các ca sĩ mù hát rong ngoài đường phố. Năm 1927, Pháp mở Viện Âm Nhạc Viễn Đông tại Hà Nội chuyên dạy nhạc cổ điển Âu Châu, từ đó các nhạc sĩ Việt Nam bắt đầu học "son phe". Thanh niên Việt Nam, nhất là sinh viên, học sinh, rất ưa chuộng nhạc phổ thông của Pháp qua các bài hát của Tino Rossi, Josephine Becker và các điệu vũ như Tango, Foxtrot, Valse. Họ cũng học chơi các nhạc cụ như piano, vĩ cầm, guitar, banjo, và mandoline. Một trong những thanh niên thời đó chọn học đàn piano và guitar chính là nhạc sĩ Dương Thiệu Tước.
Nhạc sĩ Dương Thiệu Tước sinh ngày 14 tháng 1 năm 1915, quê ở làng Vân Đình, quận Ứng Hòa, tỉnh Hà Đông (nay là Hà Tây). Ông xuất thân từ một dòng họ khoa bảng, là cháu nội của cụ Dương Khuê (1836-1898), một nhà thơ nổi tiếng trong văn học Việt Nam. Thân phụ ông, cụ Dương Tự Nhu, làm bố chánh tỉnh Hưng Yên. Từ nhỏ, Dương Thiệu Tước đã mang trong mình máu nghệ sĩ và được khuyến khích học nhạc từ lúc còn nhỏ. Cụ Nhu mua cho ông đàn nguyệt khi ông mới 7 tuổi. Ngoài đàn nguyệt, ông còn học thêm đàn tranh với các bậc thầy miền Trung. Đến năm 14 tuổi, ông bắt đầu chú ý đến nhạc Tây phương và chuyển sang học đàn dương cầm với một thầy người Pháp. Lúc 16 tuổi, ông học thêm guitar và trở thành một trong những nghệ sĩ guitar hàng đầu Việt Nam, đồng thời là giáo sư tại Viện Quốc Gia Âm Nhạc Việt Nam, dạy guitar cho nhiều thế hệ nhạc sĩ sau này.
Mặc dù học nhạc và kỹ thuật sáng tác nhạc Tây phương, các tác phẩm của Dương Thiệu Tước vẫn đượm hồn dân tộc, đúng như báo Thời Nay lúc đó kêu gọi. Trong một ấn phẩm viết tay, ông ngỏ ý rằng "Tân nhạc Việt Nam phải thể hiện rõ cá tính Việt Nam. Để đạt được điều này, người sáng tác phải hiểu rõ nhạc Việt qua cách học nhạc cụ cổ truyền cũng như hát được các điệu hát cổ truyền." Ý tưởng này được thể hiện rõ trong các tác phẩm như "Tiếng Xưa", "Đêm Tàn Bến Ngự", được viết dựa theo các điệu Nam Bình, Nam Ai nổi bật cá tính của Huế. Những sáng tác khác của ông trong những năm cuối thập niên 1940 và đầu thập niên 1950 bao gồm "Kiếp Hoa", "Áng Mây Chiều", "Nhạc Ngày Xanh", "Dưới Nắng Hồng", "Xuân Mới", "Thiếu Niên Xuân Khúc Ca", và "Thuyền Mơ".
Dương Thiệu Tước không chỉ sáng tác mà còn tham gia xây dựng, cổ động và phổ biến nền tân nhạc Việt Nam qua nhiều hình thức: sáng tác, biểu diễn, xuất bản, đào tạo, lý luận, và phê bình. Ông viết các bài tham khảo cho tập san Việt Nhạc và thành lập hội Khuyến Nhạc cùng với nhạc sĩ Thẩm Oánh. Cả hai còn thành lập ban nhạc Myosotis, thường biểu diễn tại nhà riêng.
Năm 19 tuổi, Dương Thiệu Tước lập gia đình với bà Lương Thị Thuần, cũng xuất thân từ một dòng họ khoa bảng. Họ sinh được 3 con gái và 2 con trai. Năm 1940, ông mở cửa hiệu bán và sửa chữa đàn tại 57 Hàng Gai, Hà Nội. Đầu thập niên 1950, ông rời Hà Nội vào Huế và sau đó đến Sài Gòn. Tại Huế, ông quen Minh Trang, một ca sĩ nổi tiếng lúc bấy giờ, và họ trở thành đôi tình nhân. Những sáng tác của ông trong thời gian này bao gồm "Ngọc Lan", "Chiều", và "Bóng Chiều Xưa".
Năm 1954, khi đất nước chia đôi, ông vào Sài Gòn sinh sống, sống chung với ca sĩ Minh Trang và có thêm 4 gái và 1 trai. Bà Lương Thị Thuần và các con cũng vào Nam năm 1954. Từ giữa thập niên 60 đến 70, ông giảm sáng tác nhưng vẫn có những tác phẩm nổi tiếng như "Ơn Nghĩa Sinh Thành". Tại Sài Gòn, ông làm chủ sự phòng văn nghệ tại đài Phát Thanh Sài Gòn và là giáo sư dạy guitar tại trường Quốc Gia Âm Nhạc. Ông tạo ra chương trình "Cổ Kim Hòa Điệu" phát thanh thường xuyên tại đài Phát Thanh Sài Gòn vào cuối thập niên 1950, sử dụng cả hai nhạc cụ Tây phương và cổ truyền Việt Nam để trình diễn tân nhạc Việt.
Biến cố 30 tháng 4 năm 1975 đánh dấu một khúc quanh trọng đại trong sự nghiệp của nhạc sĩ Dương Thiệu Tước. Các tác phẩm của ông bị cấm, không được trình diễn. Ông cũng ngừng dạy học tại trường Quốc Gia Âm Nhạc. Sau đó, ca sĩ Minh Trang và các con ra đi qua Mỹ, còn ông ở lại Sài Gòn. Bà Lương Thị Thuần và con trai cả Dương Hồng Ân đoàn tụ tại Đức năm 1979. Từ lúc này, ông sống rất chật vật, nhờ vào sự tiếp tế của các con ở nước ngoài và sự chăm sóc của hai người con gái còn sống tại Sài Gòn.
Đầu thập niên 1980, ông về chung sống với bà Nguyễn Thị Nga, nguyên là học trò giỏi của ông. Bà Nga, một người phụ nữ mẫu mực, hết lòng lo lắng chăm sóc ông lúc tuổi xế chiều. Năm 1983, ông có thêm một con trai với bà Nga. Những năm cuối đời, ông sống rất đạm bạc và qua đời ngày 1 tháng 8 năm 1995, hưởng thọ 80 tuổi.
Nguồn: Phạm Ký