Lê Uyên Phương
Tên thật: Lê Minh Lập (nhạc sĩ) |
Nghệ danh: Lê Uyên Phương |
Quê quán: Đà Lạt |
Thể loại: Tình khúc lãng mạn |
Nghề nghiệp: Nhạc sĩ, ca sĩ |
Năm hoạt động: 1960 - 1999 |
Thành tích: Nhiều ca khúc nổi tiếng tại Sài Gòn trước 1975 và cộng đồng hải ngoại |
Địa chỉ mạng xã hội: Không có thông tin cụ thể |
A.TIỂU SỬ NGHỀ NGHIỆP
Lê Minh Lập sinh ngày 2 tháng 2 năm 1941 tại Đà Lạt. Ông là con của ông Lê Văn Lộc và bà Công Tôn Nữ Phương Nhi, con gái thứ chín của vua Thành Thái. Do giấy tờ bị thất lạc trong thời chiến tranh, ông phải làm lại giấy khai sinh hai lần và tên bị nhầm thành Lê Minh Lộc rồi Lê Văn Lộc. Nghệ danh Lê Uyên Phương lấy từ tên mẹ và người bạn gái đầu tiên ghép lại. Bài nhạc đầu tay “Buồn đến bao giờ” được ông sáng tác năm 1960 tại Pleiku.
Lâm Phúc Anh, sinh ngày 17 tháng 7 năm 1952, là con của một gia đình thương gia khá giả và nề nếp ở khu người Hoa tại Sài Gòn. Bà được gia đình đưa lên Đà Lạt để học trường Tây nội trú. Hai người quen biết và kết hôn vào năm 1968. Hầu hết các ca khúc của Lê Uyên Phương từ đây về sau đều tặng vợ.
Mùa xuân năm 1970, nhà thơ Đỗ Quý Toàn từ Sài Gòn lên Đà Lạt họp với anh em hướng đạo sinh. Người thân của Lê Uyên Phương cho ông Toàn nghe một băng cassette mà Lê Uyên Phương thu tại nhà. Ông Toàn giật mình và sau đó giới thiệu Lê Uyên Phương cho nhà báo Đỗ Ngọc Yến. Đỗ Ngọc Yến tổ chức cho Lê Uyên Phương buổi biểu diễn đầu tiên tại Trường Quốc gia Âm nhạc và Kịch nghệ. Từ đó, Lâm Phúc Anh gắn liền với nghệ danh Lê Uyên và khi hai người song ca được gọi là Lê Uyên và Phương.
Trong vòng 19 ngày, Lê Uyên Phương biểu diễn liên tục các show cho sinh viên các trường Đại học Văn khoa, Luật khoa, Sư Phạm, Y Khoa, và tại Đài Truyền hình Việt Nam lẫn quán cà phê Con Nai Vàng của nhạc sĩ Cung Tiến. Nhờ vậy, Lê Uyên Phương có được hợp đồng biểu diễn tại 5 phòng trà Sài Gòn, mỗi đêm hát thù lao là 5000 đồng cho mỗi điểm biểu diễn 3 bài (lương giáo viên của ông hồi đó là 5, 6 ngàn/tháng).
Từ Đà Lạt vào Sài Gòn, Lê Uyên Phương đã đem đến một luồng gió mới cho tân nhạc Việt Nam với những ca khúc nồng nàn, khắc khoải và đôi khi bàng bạc, triết lý như "Bài ca hạnh ngộ", "Dạ khúc cho tình nhân", "Lời gọi chân mây", "Vũng lầy của chúng ta". Mỗi ca khúc của Lê Uyên Phương đều mang cảm thức hạnh phúc lẫn chia lìa, bởi tình yêu của một chàng trai mang trong mình căn bệnh quái ác với cô gái phơi phới mới lớn.
Năm 1979, hai vợ chồng Lê Uyên Phương rời Việt Nam, đến định cư tại Miền Nam California, Hoa Kỳ, nơi ra đời hai cô con gái Lê Uyên Uyên và Lê Uyên My. Năm 1984, Lê Uyên bị trúng đạn lạc từ hai băng đảng thanh toán nhau nên phải ngừng biểu diễn trên các sân khấu ca nhạc hải ngoại. Sau tai nạn, cả hai lặng yên sắp xếp lại cuộc sống. Mãi đến năm 1990, Lê Uyên mới trở lại sân khấu với tiết mục trong chương trình Paris By Night số 11.
Lê Uyên Phương mất vì bệnh ung thư phổi ngày 29 tháng 6 năm 1999 tại bệnh viện UCI (University of California, Irvine).
B.SỰ NGHIỆP ÂM NHẠC
Lê Uyên Phương nổi tiếng với những tình khúc ca ngợi tình yêu nồng nàn, lãng mạn. Những ca khúc của ông như "Bài ca hạnh ngộ", "Dạ khúc cho tình nhân", "Lời gọi chân mây", "Vũng lầy của chúng ta" đã được giới trẻ đón nhận nồng nhiệt. Các ca khúc của ông thường mang cảm giác hạnh phúc lẫn chia lìa, pha lẫn triết lý và khắc khoải.
Lê Uyên Phương cũng sáng tác nhiều bài nhạc nổi tiếng khác như "Buồn đến bao giờ", "Đừng nói xa nhau", "Đêm tình yêu", "Tình khúc chiều mưa". Những ca khúc này đều mang đậm dấu ấn cá nhân và tình yêu sâu đậm của ông dành cho vợ.
C.DI SẢN ÂM NHẠC
Lê Uyên Phương đã để lại một di sản âm nhạc quý báu, không chỉ đối với cộng đồng người Việt Nam tại hải ngoại mà còn cho nền âm nhạc Việt Nam nói chung. Các ca khúc của ông đã trở thành những bài hát bất hủ, gắn liền với tình yêu và cuộc sống của nhiều thế hệ người Việt. Những tình khúc của Lê Uyên Phương sẽ mãi mãi sống trong lòng người yêu nhạc và tiếp tục được thế hệ sau trân trọng và phát huy.
Theo thegioitinhca.com
Ý kiến (0)
Vui lòng đăng nhập để chia sẻ ý kiến
Danh bạ nghệ sĩ