Phạm Đình Chương
Tên thật: Phạm Đình Chương |
Nghệ danh: Hoài Bắc |
Quê quán: Hà Nội (quê nội), Sơn Tây (quê ngoại) |
Thể loại: Nhạc tiền chiến, Tình khúc lãng mạn |
Nghề nghiệp: Nhạc sĩ |
Năm hoạt động: 1946 - 1991 |
Thành tích: Nhiều ca khúc nổi tiếng trong cộng đồng người Việt Nam |
Địa chỉ mạng xã hội: Không có thông tin cụ thể |
A.TIỂU SỬ NGHỀ NGHIỆP
Phạm Đình Chương sinh ngày 14 tháng 11 năm 1929 tại phường Bạch Mai, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội. Ông xuất thân trong một dòng họ văn nghệ nổi tiếng. Chú ông là nhà văn Trúc Khê và nhạc sĩ Phạm Ngọc Cẩn, cô là nghệ sĩ Song Kim và dượng là nhà thơ Thế Lữ. Anh ông là họa sĩ Phạm Văn Đôn và nhạc sĩ Phạm Văn Chung. Cha của Phạm Đình Chương là ông Phạm Đình Phụng. Người vợ đầu của ông Phụng sinh được hai người con trai: Phạm Đình Sỹ và Phạm Đình Viêm. Phạm Đình Sỹ lập gia đình với nữ kịch sĩ Kiều Hạnh và có con gái là ca sĩ Mai Hương. Phạm Đình Viêm là ca sĩ Hoài Trung của ban hợp ca Thăng Long. Người vợ sau của ông Phạm Đình Phụng có ba người con: Trưởng nữ là Phạm Thị Quang Thái (ca sĩ Thái Hằng, vợ Phạm Duy), con trai thứ là nhạc sĩ Phạm Đình Chương, và cô con gái út Phạm Thị Băng Thanh (ca sĩ Thái Thanh).
Phạm Đình Chương theo học trường Bưởi đến trung học thì nghỉ học và gia nhập đoàn ca kịch lưu diễn ở nông thôn vào năm 1946. Năm 1951, ông về Hà Nội và lập ra ban hợp ca Thăng Long nổi tiếng. Năm 1953, ông lập gia đình với ca sĩ Khánh Ngọc (sinh năm 1937, tên thật là Hàn Thị Lan Anh) rồi chuyển vào Sài Gòn sống. Sau sự kiện 30 tháng 4 năm 1975, ông định cư tại California, Hoa Kỳ. Ông mất ngày 22 tháng 8 năm 1991 tại California.
B. SỰ NGHIỆP ÂM NHẠC
Phạm Đình Chương được nhiều người chỉ dẫn nhạc lý nhưng phần lớn vẫn là tự học. Trong những năm đầu kháng chiến, ông cùng các anh em Phạm Đình Viêm, Phạm Thị Quang Thái, và Phạm Thị Băng Thanh gia nhập ban văn nghệ Quân đội ở Liên Khu IV.
Phần nhiều những tác phẩm của Phạm Đình Chương thường được xếp vào dòng nhạc tiền chiến bởi mang phong cách trữ tình lãng mạn. Hai sáng tác đầu tiên của ông, "Ra đi khi trời vừa sáng" và "Hò leo núi", đều có không khí hào hùng, tươi trẻ. Năm 1951, ông trở về thành. Với nghệ danh Hoài Bắc, ông cùng các anh em Hoài Trung, Thái Thanh, và Thái Hằng lập ban hợp ca Thăng Long danh tiếng, du ca khắp các thành phố lớn của Nam Việt Nam lúc đó. Thời kỳ này, các sáng tác của ông thường mang âm hưởng của miền Bắc, như nói lên tâm trạng hoài hương của mình: "Khúc giao duyên", "Được mùa", "Tiếng dân chài". Thời gian sau, ông viết nhiều bản nhạc vui tươi hơn: "Xóm đêm", "Ly rượu mừng", "Đón xuân".
Khi cuộc hôn nhân với ca sĩ Khánh Ngọc tan vỡ, ông bắt đầu sáng tác tình ca. Ông đem tâm trạng đau thương vào bốn ca khúc da diết, đau nhức, buốt giá tâm can: "Đêm cuối cùng", "Thuở ban đầu", "Người đi qua đời tôi", "Nửa hồn thương đau".
Phạm Đình Chương cũng phổ nhạc từ thơ. Nhiều bản nhạc phổ thơ của ông đã trở thành những bài bất hủ, có một sức sống riêng như: "Đôi mắt người Sơn Tây" (thơ Quang Dũng), "Mộng dưới hoa" (thơ Đinh Hùng), "Nửa hồn thương đau" (thơ Thanh Tâm Tuyền), "Đêm nhớ trăng Sài Gòn" (thơ Du Tử Lê). Phạm Đình Chương cũng đóng góp cho tân nhạc Việt Nam bài trường ca bất hủ "Hội Trùng Dương" nói về ba con sông đại diện cho ba miền: sông Hồng, sông Hương và sông Cửu Long.
C. DI SẢN ÂM NHẠC
Phạm Đình Chương đã để lại một di sản âm nhạc quý báu, không chỉ đối với cộng đồng người Việt Nam tại hải ngoại mà còn cho nền âm nhạc Việt Nam nói chung. Các ca khúc của ông, từ những bản nhạc trữ tình lãng mạn đến các bài hát mang âm hưởng miền Bắc và những bản phổ nhạc từ thơ, đều mang đậm dấu ấn cá nhân và tình yêu quê hương, đất nước. Các tác phẩm của ông sẽ mãi mãi sống trong lòng người yêu nhạc và tiếp tục được thế hệ sau trân trọng và phát huy.
Theo thegioitinhca.com
Ý kiến (0)
Vui lòng đăng nhập để chia sẻ ý kiến
Danh bạ nghệ sĩ